“Tập đoàn” : Áp dụng cho doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng

“Tập đoàn” : Áp dụng cho doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng

Doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng mới được lấy danh xưng Tập đoàn. Đó là một trong những nội dung được Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết khi đơn vị này đang siết lại việc sử dụng từ “tập đoàn” trong tên doanh nghiệp.


                          Danh xưng “tập đoàn” vẫn còn là tranh cãi…

Theo Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh, đơn vị này đưa ra hai phương án. Một là doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng và có góp vốn ít nhất tại hai công ty khác với tỉ lệ góp vốn chiếm trên 50% vốn điều lệ của các công ty đó thì được đặt tên có chữ “tập đoàn”.

Hai là, doanh nghiệp không thuộc loại siêu nhỏ, nhỏ hoặc vừa và có tổ chức dưới hình thức nhóm công ty thì có thể đặt tên có chữ “tập đoàn”.

Cụ thể, doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp thương mại, dịch vụ có trên 100 lao động và trên 50 tỷ đồng hoặc doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản hoặc công nghiệp, xây dựng có trên 300 lao động, vốn trên 100 tỷ đồng.

Ngoài ra, doanh nghiệp có thể dùng chữ “tập đoàn” nếu được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoặc “đặc cách”. Hiện ngoài các Tập đoàn, Tổng công ty lớn là những doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ sắp xếp lại thưo hướng CPH. Thời gian qua các doanh nghiệp tư nhân cũng đua nhau nhậndanh xưng tập đoàn hoặc “group” với nhiều hình thức khác nhau.

Tuy nhiên, việc chấn chỉnh tên gọi là việc làm cần thiết của Bộ KH-ĐT. Nhưng các chuyên gia kinh tế thì cho rằng, danh xưng “tập đoàn” đã không có tư cách pháp nhân. Do vậy, khi đưa nó và dạng quản lý việc đặt tên là cần thiết nhưng cũng có phần khiên cưỡng.

Ở Việt Nam, hiện vẫn chưa có định nghĩa chính xác về tập đoàn kinh tế, mà thực chất xung quanh vấn đề này còn rất nhiều tranh cãi.

Theo bách khoa toàn thư Wikipedia tiếng Anh thì tập đoàn kinh tế được định nghĩa là:

Tập đoàn kinh tế là một thực thể pháp lí, mà trong khi được sở hữu chung bởi một số người tự nhiên hoặc những thực thể pháp lí khác có thể tồn tại hoàn toàn độc lập khỏi chúng sự tồn tại độc lập này cho tập đoàn những quyền riêng mà những thực thể pháp lí khác không có. Qui mô và phạm vi về khả năng và tình trạng của tập đoàn có thể được chỉ rõ bởi luật pháp nơi sát nhập.

Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì tập đoàn kinh tế được xếp là một thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau:

Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm công ty gồm có:
  • Công ty mẹ, công ty con.
  • Tập đoàn kinh tê
  • Các hình thức khác.

Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì:

Khái niệm tập đoàn kinh tế được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia. Trong mô hình này, “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của “công ty con” về tài chính và chiến lược phát triển.

Vào năm 1990 và 1991, Nhà nước đã thành lập các Tổng công ty Nhà nước, đến năm 2005 thì một số Tổng công ty được tổ chức thành tập đoàn kinh tế. Đến năm 2011 có 12 tập đoàn kinh tế và 96 Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ – con.

Danh sách các tập đoàn kinh tế Việt Nam cho đến năm 2011 gồm có: Bưu chính – Viễn thông (VNPT), Than – Khoáng sản (Vinacomin), Dầu khí (PetroVietnam), Điện lực (EVN), Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin), Dệt May (Vinatex), Cao su (VRG) và Tài chính – Bảo hiểm (Bảo Việt), Tập đoàn Viến thông quân dội, Tập đoàn Hóa chất Việt nam, Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp xây dựng Việt Nam.

                                                                         Theo Tài chính điện tử