Kinh tế năm 2013: Tiếp nhận 3 điểm nghẽn
Nhìn vào bức tranh tổng quát nền kinh tế Việt Nam năm 2012, có thể thấy những mảng sáng đáng ghi nhận. Nhưng nếu nhìn một cách biện chứng vào chất lượng các mảng sáng đó, sẽ thấy bao gồm
cả sự thụt lùi, sự thiếu minh bạch và kém bền vững.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn u ám, kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2012 vẫn có những mảng tương đối sáng: Tăng trưởng tuy thấp, khoảng 5,2%, nhưng có xu hướng quý sau tăng cao hơn quý trước. Lạm phát không vượt quá 7,5% sau hàng loạt năm ở mức cao 2 chữ số. Thặng dư cán cân thanh toán tổng thể không ít hơn 8,5 tỷ USD nhờ tăng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên tới 24,2%. Bội chi ngân sách nằm trong vùng an toàn, không lớn hơn 5% GDP. Tỷ giá ổn định và lãi suất giảm mạnh vào quý cuối năm, thanh khoản ngân hàng đã khá ổn định…
Năm 2012 đã khép lại. Những vấn đề bất ổn đã và đang tồn tại tạo thành 3 điểm nghẽn rất lớn sẽ được “bàn giao” cho năm 2013, đó là: Giảm tổng cầu, thất nghiệp và nợ xấu ngân hàng.
Cả 3 điểm nghẽn này đều liên quan trực tiếp đến cấu trúc nền kinh tế: Khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nắm tiềm lực lớn nhất về tài nguyên, về vốn xã hội, về những đặc ân phi thị trường, nhưng hoạt động ôm đồm, đầu tư tràn lan, hoạt động kém hiệu quả. Khu vực FDI đang biến nền sản xuất thành xưởng gia công lớn, không chuyển giao công nghệ hoặc chỉ đầu tư vào những lĩnh vực tạo nhanh lợi nhuận, sử dụng ít nhân lực, chuyển giá, trốn thuế và hoạt động không ổn định. Khu vực tư nhân bị chèn ép, yếu thế, manh mún, tỷ trọng DN dừng sản xuất lớn nhất trong số hàng trăm ngàn DN cả nước ngừng hoạt động, thu nhập của người lao động thấp, bấp bênh.
Điểm nghẽn 1: Giảm tổng cầu
Để có lạm phát dưới 1 chữ số, nền kinh tế đã phải hy sinh tăng trưởng, năm 2012 chỉ đạt khoảng 5,2% so với mức 5,89% năm 2011; tốc độ tăng tín dụng thấp, chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng huy động. Thực tế cho thấy, cả 2 chỉ tiêu vĩ mô (lạm phát và tăng trưởng) đều không dựa vào năng suất lao động, mà do chính sách thắt chặt tiền tệ và sự hy sinh sản lượng tiềm năng. Năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế kém, nhưng lãi suất vẫn ở mức cao và kéo dài. Thị trường chứng khoán “đao” thảm hại ở phân khúc cổ phiếu (chứng khoán vốn), nhưng thị trường trái phiếu chính phủ vẫn tiêu thụ tốt, nghĩa là nợ công tăng mạnh và vốn dồn cho khu vực phi sản xuất vẫn có tốc độ tăng lớn hơn cho khu vực sản xuất…
Nền kinh tế Việt Nam vẫn mất cân đối về cung- cầu và vẫn là một nền công nghiệp gia công, chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để gia công hàng xuất khẩu. Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu lớn sang thị trường EU, ước đạt 18 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm 2011, nhưng con số kim ngạch nhập khẩu áp đảo lại từ Trung Quốc, lên tới 26,2 tỷ USD, làm cho chất lượng công nghệ, hàng hóa nhập khẩu thấp và giảm sức sản xuất trong nước. Phần lớn công nghiệp có xuất- nhập vẫn là từ khu vực FDI. Công nghiệp phụ trợ hầu như không đáng kể, chưa tham gia được vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, mà chỉ là sự phân bố “xưởng sản xuất” phù hợp với địa lý bán hàng bằng sự dễ tính của nước chủ nhà.
Điểm nghẽn 2: Thất nghiệp
Tổng cầu suy giảm mạnh tác động xấu trực tiếp đến tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, kéo theo đó là vấn đề thiếu việc làm. Nếu năm 2010, cả nước có gần 190.000 người đăng ký thất nghiệp, năm 2011 tăng lên hơn 330.000 người, thì chỉ trong quý I/2012 đã có đến 116.000 người đăng ký thất nghiệp, tăng hơn 70% so cùng kỳ năm 2011. Từ năm 2010 đến nay, bình quân mỗi tháng, số người đăng ký thất nghiệp đã tăng lên hơn 2 lần, đẩy Việt Nam trở thành quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất so với các nước trong khu vực.
Hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều chung tình trạng giảm tuyển dụng và tăng số lao động bị mất việc dưới nhiều hình thức, do giảm sản lượng hàng hóa tiêu thụ và hoặc ngừng sản xuất, chủ DN bỏ trốn. Tại TP.HCM, nhu cầu tuyển dụng lao động trong tháng 7/2012 giảm 40%, thậm chí có những ngành giảm 60%.
Điểm nghẽn 3: Nợ xấu ngân hàng
Hiện các DNNN và DN mà nhà nước nắm cổ phần chi phối đang chiếm tới khoảng 40% tổng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng và gần 100% tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước, nhưng có thể chiếm tới 70% nợ xấu của các ngân hàng. Theo Bộ Tài chính, hiện có đến 30/85 tập đoàn và tổng công ty có số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu gấp trên 3 lần, đặc biệt có 7 tập đoàn và tổng công ty có số nợ/vốn chủ sở hữu (D/E) trên 10 lần, một con số quá lớn so với giới hạn 1,5 lần.
Đến nay, khu vực kinh tế nhà nước chỉ tạo ra khoảng 37% GDP, nhưng ở đó, nhà nước vừa là nhà đầu tư, nhà kinh doanh, nhà tiêu thụ và là nhà thực thi luật pháp. Cũng ở khu vực này, trên 80% nguồn lực tài nguyên, vốn ODA và hơn 650 ngàn tỷ đồng vốn chủ sở hữu không phải nộp lợi tức rơi vào tay các DNNN chỉ để tạo ra dưới 40% GDP với đầy đủ các ưu đãi từ đầu vào tới đầu ra… và nợ xấu lớn nhất đang nằm ở khu vực này, khoảng 70% của 10% tổng dư nợ (khoảng 203.000 tỷ đồng)…
Theo T.S Nguyễn Đạt Lai
Báo Điện Tử Công Thương ( Ngày 04/01/2013)